Hiệp định CPTPP là gì? Cơ hội cho Việt Nam khi tham gia Hiệp định CPTPP
Mục lục [Ẩn]
Hiệp định CPTPP là gì?
Hiệp định CPTPP là cách viết tắt của Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership, nghĩa là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương.
Đây là Hiệp định thương mại đa phương của 11 nước, trong đó có Việt Nam, gồm Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru và Singapore.
Các thành viên tham gia Hiệp định CPTPP
Quá trình hình thành Hiệp định CPTPP
Hiệp định CPTPP được ký kết vào tháng 3 năm 2018 trên cơ sở của hiệp định TPP, do đó hai hiệp định này có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Hiệp định TPP là gì?
Tiền thân của Hiệp định CPTPP là Hiệp định TPP, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership Agreement). Đây là hiệp định thương mại đa phương được ký kết với mục đích giao lưu và hội nhập các nền kinh tế thuộc khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
TPP vốn có 12 thành viên gồm các thành viên hiện có của CPTPP (ban đầu Mỹ cũng là thành viên nhưng về sau rút khỏi Hiệp định). Hiệp định TPP được xem là nền móng để hình thành Hiệp định CPTPP.
Sự hình thành Hiệp định TPP và Hiệp định CPTPP
Trên thực tế, Hiệp định TPP ban đầu được đàm phán và ký kết lần đầu tiên vào ngày 3 tháng 6 năm 2005 với 4 thành viên sáng lập là Brunei, Chile, New Zealand và Singapore với tên gọi khi đó là Hiệp định P4, có hiệu lực chính thức vào ngày 28/5/2006.
Thời điểm đó, Hiệp định P4 không nhận được quá nhiều sự chú ý của các quốc gia khác. Chỉ đến tháng 9 năm 2008, khi Mỹ tuyên bố tham gia vào Hiệp định này mới tạo ra những thay đổi và tiến bộ quan trọng.
Sau khi tham gia vào Hiệp định, Mỹ đưa ra đề nghị các bên ký kết một hiệp định mới gọi là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Điều này ít nhiều đã tạo ra sự thu hút với các quốc gia khác, Australia, Malaysia, Peru và Việt Nam tham gia vào Hiệp định với tư cách thành viên, các quốc gia khác như Colombia, Đài Loan, Indonesia, Hàn Quốc, Philippines và Thái Lan cũng ngỏ ý muốn tham gia vào hiệp định.
Sau 5 năm đàm phán, đến ngày 4/02/2016, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương chính thức được ký kết tại Auckland, New Zealand với 12 thành viên gồm Brunei, Chile, New Zealand, Singapore, Australia, Canada, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, Peru, Việt Nam và Hoa Kỳ.
Theo nội dung đã thỏa thuận thì Hiệp định TPP sẽ chính thức có hiệu lực sau 2 năm kể từ ngày ký kết. Tuy nhiên chưa kịp chờ đến ngày các thỏa thuận trong đó được thực thi thì Mỹ đã rút khỏi Hiệp định TPP vào ngày 30/01/2017. Điều này khiến cho Hiệp định TPP chưa kịp có hiệu lực đã phải tạm dừng.
Sự rút lui của Hoa Kỳ khiến cho các nước thành viên khác phải ngồi lại để tìm biện pháp xử lý đối với Hiệp định trong tình huống này. Sau thời gian cân nhắc và đưa ra các phương án giải quyết, tháng 11 năm 2017, 11 nước còn lại đã thống nhất việc đổi tên Hiệp định TPP thành Hiệp định CPTPP với các nội dung mới so với trước đó.
Cuối cùng trong ngày 8/3/2018, đại diện của 11 nước thành viên đã chính thức ký Hiệp định CPTPP tại thành phố Santiago của Chile.
Lễ ký kết Hiệp định CPTPP
Các nội dung quan trọng của Hiệp định CPTPP
Được hình thành dựa trên Hiệp định TPP nên về cơ bản nội dung của Hiệp định TPP được giữ nguyên trong Hiệp định CPTPP (30 chương và 9 phụ lục), tuy nhiên có mở rộng thêm quy định cho phép các nước thành viên tạm hoãn 20 nhóm nghĩa vụ gồm:
- 11 nghĩa vụ liên quan tới Sở hữu trí tuệ
- 2 nghĩa vụ liên quan đến Mua sắm Chính phủ
- 7 nghĩa vụ liên quan đến Quản lý hải quan và Tạo thuận lợi thương mại, Đầu tư, Thương mại dịch vụ xuyên biên giới, Dịch vụ Tài chính, Viễn thông, Môi trường, Minh bạch hóa và Chống tham nhũng.
Hiệp định đề cập đến nhiều nội dung về thương mại truyền thống như mở cửa thị trường, vốn phổ biến trong các Hiệp định FTA đến các vấn đề như mua sắm của Chính phủ, thương mại điện tử… đồng thời mở rộng đến các vấn đề vô cùng mới như ký các FTA về lao động, môi trường, chống tham nhũng trong thương mại và đầu tư.
Hiệp định CPTPP đề cập đến các cam kết trong các phạm vi như:
- Cam kết về cắt giảm thuế quan
- Cam kết về dịch vụ đầu tư
- Cam kết về mua sắm của Chính phủ
- Cam kết về lao động
- Cam kết về sở hữu trí tuệ
- Cam kết về doanh nghiệp Nhà nước
CPTPP được đánh giá là một trong những Hiệp định thương mại tự do chất lượng và toàn diện, có mức độ cam kết sâu nhất từ trước đến nay mà Việt Nam đã tham gia.
Sự khác nhau giữa Hiệp định CPTPP và Hiệp định TPP
Dù được xây dựng dựa trên Hiệp định TPP nhưng giữa CPTPP và TPP không hoàn toàn đồng nhất, vẫn có rất nhiều điểm khác nhau, cụ thể:
Tiêu chí |
Hiệp định CPTPP |
Hiệp định TPP |
Về tên gọi |
Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương. Đã bổ sung 2 cụm từ là “toàn diện” và “tiến bộ” |
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương |
Về số lượng thành viên |
11 thành viên |
12 thành viên trong đó có 11 thành viên của CPTPP và Hoa Kỳ |
Về nội dung |
- Hầu như giữa nguyên các cam kết của Hiệp định TPP - Cho phép các nước tạm hoãn thực hiện 20 nghĩa vụ trong các lĩnh vực quan trọng như dịch vụ tài chính, đầu tư, mua sắm Chính phủ, sở hữu trí tuệ… |
|
Về hiệu lực |
6 quốc gia ký phê chuẩn thì Hiệp định sẽ có hiệu lực sau 60 ngày kể từ ngày ký |
Tổng GDP của nước triển khai phải bằng 85% tổng GPB của 12 nước thành viên ký hiệp định từ năm 2013 |
Về mức đóng góp vào thương mại và GDP toàn cầu |
- Đóng góp vào GDP: 15% - Đóng góp vào thương mại toàn cầu: 15% |
- Đóng góp vào GDP: 40% - Đóng góp vào thương mại toàn cầu: 30% |
Ý nghĩa của Hiệp định CPTPP
CPTPP được đánh giá là một trong những Hiệp định đa phương có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với Việt Nam trên quá trình hội nhập và phát triển kinh tế ở nhiều khía cạnh như:
- Về chính trị - đối ngoại: Hiệp định này là cơ hội để mở rộng quan hệ ngoại giao, tăng mối giao hảo với các quốc gia thành viên, từ đó tác động đến các quốc khác trong và ngoài khu vực tham gia. Hiệp định này còn đóng có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy xu hướng hợp tác toàn diện trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
- Về kinh tế: Tham gia CPTPP sẽ đem đến cho Việt Nam cơ hội thúc đẩy lĩnh vực xuất, nhập khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài cũng như có nhiều cơ hội để phát triển kinh doanh lâu dài.
Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi ký kết Hiệp định CPTPP
Việc đặt bút ký vào Hiệp định CPTPP mở ra cho Việt Nam rất nhiều cơ hội mới để phát triển kinh tế nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức.
Cơ hội của Việt Nam
Là một Hiệp định được đánh giá toàn diện nên những lợi ích mà Việt Nam có thể nhận được khi tham gia CPTPP trải dài trên nhiều lĩnh vực, cụ thể:
* Lợi ích về xuất khẩu
Một trong những cam kết của Hiệp định CPTPP là giảm thuế nhập khẩu về mức 0%, Việt Nam có thể dựa vào lợi thế này để thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu và được hưởng nhiều ưu đãi từ việc giảm thuế.
Theo ước tính của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, xuất khẩu của Việt Nam có cơ hội tăng thêm 4,04% vào năm 2035.
* Lợi ích trong việc tham gia chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu
Theo đánh giá, các thành viên của CPTPP đóng góp 13,5% vào GDP toàn cầu, tổng kim ngạch thương mại có thể lên đến hơn 10.000 tỷ USD. Do đó khi tham gia vào CPTPP, nước ta có cơ hội tham gia và nâng cao trình độ phát triển của nền kinh tế, tăng năng suất lao động cả về trình độ và chuyên môn, chuyển dần từ công nghiệp nặng sang các ngành điện tử, công nghệ cao, sản phẩm nông nghiệp xanh. Nền kinh tế của Việt Nam có cơ hội được nâng tầm trong thời gian từ 5 đến 10 năm tới.
* Lợi ích về việc phát triển các ngành kinh tế
Tham gia vào CPTPP cũng là cơ hội để các ngành kinh tế có mức tăng trưởng lớn, đặc biệt là ngành sản xuất thực phẩm, đồ uống, thuốc lá, dệt may, hóa chất…
* Lợi ích trong việc cải cách thể chế
Việc tham gia CPTPP là cơ hội để Việt Nam xem xét, rà soát và hoàn thiện về thể chế pháp luật, thể chế kinh tế cho phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, từ đó thúc đẩy đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
* Lợi ích về thu nhập và việc làm
Mở rộng và hội nhập tạo ra nhiều cơ hội về việc làm cho người dân, giúp nâng cao thu nhập và đời sống. Sự tăng trưởng về kinh tế cũng giúp cho nước ta có điều kiện để cải thiện nguồn nhân lực cả về chất lượng lẫn trình độ, đồng thời chú trọng vào các vấn đề an sinh xã hội.
Một số thách thức đối với Việt Nam
Đi kèm với những cơ hội là những thách thức đặt ra đối với Việt Nam để đáp ứng các tiêu chuẩn và cam kết đã thỏa thuận. Bốn thách thức lớn nhất mà Việt Nam phải đối mặt gồm thách thức về kinh tế, thách thức về thể chế và pháp luật, thách thức về xã hội và thách thức về thu ngân sách, cụ thể:
* Thách thức về kinh tế
- Tăng khả năng cạnh tranh trong ngành chế biến thực phẩm, nông sản, lâm sản
- Các sản phẩm công nghiệp của các nước thành viên CPTPP có thể gây khó khăn cho sản xuất trong nước như giấy, ô tô hay thép…
- …
* Thách thức về hoàn thiện pháp luật và thể chế
Việt Nam đứng trước thách thức phải điều chỉnh, sửa đổi và nội luật hóa rất nhiều quy định cam kết trong Hiệp định CPTPP. Trong đó cam kết được xem là khó nhất, đòi hỏi nguồn nhân lực lớn hiện nay là sở hữu trí tuệ.
* Thách thức về xã hội
Nhiều cơ hội phát triển kinh doanh cũng đồng nghĩa với tính cạnh tranh cũng tăng lên, điều này có thể gây khó khăn cho một số doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp nhỏ và vừa hoặc một số doanh nghiệp có công nghệ sản xuất lạc hậu.
Chính phủ đứng trước thách thức vừa phải hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ vừa phải đảm bảo môi trường kinh doanh công bằng, phù hợp với thỏa thuận trong CPTPP.
* Thách thức về thu ngân sách
Hiệp định CPTPP đề ra các cam kết về việc giảm các loại thuế liên quan đến xuất nhập khẩu, điều này có thể ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách của nước ta.
Hiệp định CPTPP mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng đem đến nhiều thách thức cho Việt Nam, đây được xem là một trong những Hiệp định đa phương có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình hội nhập và phát triển kinh tế của nước ta.
Đóng góp bài viết của các bạn bằng cách gửi bài viết Tại đây
Theo thị trường tài chính Việt Nam
Bình luận
Nếu bị báo cáo vi phạm quá 10 lần sẽ bị banned nick.
Mới nhất
Cũ nhất
Bình luận hay nhất